Lịch Sử nghiên cứu sinh trắc vân tay

Sinh trắc học dấu vân tay là một thuật ngữ khá phổ biến hiện nay được các bậc phụ huynh, các nhà quản lý nhân sự cũng như cá nhân quan tâm. Sinh trắc vân tay là một ngành khoa hoc nghiên cứu về mối liên hệ giữa vân tay và các chức năng não bộ đề từ đó phát hiện điểm yếu, điểm mạnh của một người để từ đó tận dụng điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu giúp phát triển bản thân một cách hoàn thiện hơn.

Sinh trắc vân tay được phối hợp bởi nhiều ngành khoa học khác nhau bao gồm: thần kinh học, tâm lý học, khoa học về gen, phôi thai học và vân tay học. Ngành khoa học sinh trắc vân tay là một trong những thành quả khoa học được nghiên cứu và phát triển lâu dài với hơn 7000 báo cáo trong thời gian qua. Hãy cũng ELite Symbol điểm qua một số những mốc thời gian phát triển quan trọng của ngành nhé!

  • Năm 1684: Tiến sĩ Nehemiah Grew (1641-1712) giới thiệu Finger Prints, Palms and Soles đến Hội Hoàng gia.
  • Năm 1685:Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống.
  • Năm 1686: Marcello Malpighi lần đầu quan sát dấu vân tay bằng kính hiển vi và ghi chép lại.
  • Năm 1788: J.C.A mayer hoàn tất soạn thảo các nguyên tắc cơ bản khi phân tích vân tay và phát hiện ra dấu vân tay của mỗi người là độc nhất.
  • Năm 1823: Joannes Evangelista Purkinji – giảng viên ngành Giải phẫu học của Đại học Breslau tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay. Trong đó ông chia vân tay thành 9 loại.
  • Năm 1832: Tiến sĩ Charles Bell (1774-1842) là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp khoa học nghiên cứu giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng. Ông đã xuất bản cuốn “The Hand: Its Mechanism and Vital Endowments as Evincing Design“.
  • Năm 1880, Henry Faulds và W.J Herschel, trong một công trình công bố tên là “Nature”, đã đề xuất sử dụng vân tay như là phương thức độc đáo để xác định bản chất của con người.

2

 

    • Cuối thế kỉ 19 năm 1880: Tiến sĩ Henry Faulds đưa ra lý luận số lượng vân tay TRC (Total Ridge Count) có thể dự đoán tương đối chính xác mức độ phụ thuộc của chúng vào gen di truyền của con người được thừa kế trong đó có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người.
    • Năm 1892: ông Francis Galton – nhà nhân chủng học người Anh. Lần đầu chia vân tay thành 3 nhóm: Whorl, Ulnar, Arch. Và ông đã chỉ ra rằng: vân tay của những cặp song sinh, anh em và di truyền cùng dòng máu thì có sự tương đồng. Chính điều này đã mở ra ngành nhân học.
    • Năm 1893: Francis Galton (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau. Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay và chia vân tay thành 3 loại lớn: Vân sóng (không có tam giác điểm), vân móc (có 1 tam giác điểm), vân xoáy (có 2 tam giác điểm) (1892) Francis Galton (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau.
    • Năm 1897: Harris Hawthorne Widler tuyên bố nghiên cứu của ông về các gò trên bàn tay ( 3 điểm bán kính A,B,C) và các chỉ dẫn về các loại vân tay chính.
    • Năm 1902: Harris Hawthorne Wilder đã thiết lập hệ thống cơ bản của môn hình thái học, di truyền học, và nghiên cứu trên chủng loại lòng bàn tay và vân tay.
    • Năm 1926: Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não

.

  • 3

 

  • Năm 1930, Hiệp hội nghiên cứu hình thái sinh lý học (viết tắt là SSPP: Society for the Study of Physiological Patterns) bắt đầu công trình nghiên cứu 5 chủng loại vân tay và những nét đặc trưng độc đáo của nó.
  • Năm 1944: Tiến sĩ tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách “Bàn tay của trẻ em”. Ông đã khám phá một sốđiểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay.
  • Năm 1957: Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down.
  • Năm 1958: Noel Jaquin đã nghiên cứu và phát hiện ra mỗi vân tay sẽ tương ứng với một chủng loại tính cách.
  • Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bảncuốn “Thiên tài qua vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sựhình thành của vân tay.
  • Năm 1970: Liên Xô sử dụng Sinh trắc vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho thế vận hội Olympic.
  • Năm 1976: Schaumann và Alter xuất bản nghiên cứu mối quan hệ rõ rang giữa dấu vân tay và các bệnh về tim mạch, ung thư, rubella, Alzheimer, Leukaemia.
  • Năm 1980: Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.
  • Năm 1981: giáo sư Roger W.Sperry và đồng sự đã được vinh danh giải thưởngNobel trong ngành Y sinh học vì những nghiên cứu về chức năng của não trái và não phải cũng như lý thuyết toàn não.Từ đây những nghiên cứu về não bộ không ngừng phát triển. Những kết quả này đã được nhiều nhà khoa học sử dụng triệt để và áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau.
  • Năm 1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng Sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay.
  • Năm 1986:  nhà khoa học người Mỹ là Stanley Cohen Rita và  nhà khoa học người Ý Levi – Montalcini đã đoạt giải Nobel khoa học khi phát hiện được sự tương quan khoa học giữa 2 chỉ số NGF (chỉ số tăng trưởng tế bào thần kinh) và EGF (chỉ số tăng trưởng tế bào hạ biểu bì dưới da)
  • Năm 1994: Sinh trắc học dấu vân tay vào Đài Loan. Sau đó, nó đã được ứng dụng vào việc học tập và nghiên cứu và tạo ra tiếng vang rất lớn tại Đài Loan vào lúc bấy giờ. Công trình nghiên cứu của  được Mỹ chứng nhận và cấp bằng sáng chế.
  • Năm 2000: Tiến sĩ Stowens – Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.
  • Năm 2004: IBMBS – Hiệp hội nghiên cứu Y học và Hành vi Quốc tế được thàng lập. Ngày nay, các nước như Mỹ, Nhật, Trung Quốc và Đài Loan đã ứng dụng vân tay học vào lĩnh vực giáo dục để năng cao chất lượng dạy và học.
  • Năm 2010 ADRC – Asian Dermoglyphics  research center – Trung tâm sinh trắc học châu Á  được thành lập với mục đích dung hệ thống máy tính hỗ trợ  cho công nghê thống kê, nghiên cứu chuyên sâu về vân tay.