Bạn có đang hiểu sai về sinh trắc học dấu vân tay?

Nhắc đến sinh trắc học dấu vân tay nhiều người nghĩ rằng nó tương tự như những bài trắc nghiệm khả năng ở bên ngoài các trung tâm tư vấn giáo dục. Nhưng thực chất không như vậy.

Khi bạn đến các trung tâm tư vấn giáo dục để kiểm tra chỉ số IQ hoặc trắc nghiệm chỉ số aq, bạn sẽ được yêu cầu làm một bài kiểm tra trong khoảng thời gian quy định.

Xem thêm: Nhân trắc có phải là tên gọi khác của sinh trắc?

Sau đó dựa vào câu trả lời của bạn, người ta sẽ đưa ra một kết quả đánh giá về các chỉ số của bạn. Tuy nhiên, cách đánh giá này chỉ mang tính tương đối và chủ quan. Vì các câu hỏi được đưa ra chỉ có thể khảo sát về khả năng của bạn ở một khía cạnh nào đó. Đồng thời phần trả lời của chúng ta đôi khi bị chi phối bởi lý trí, cảm tính hoặc tâm trạng ngay lúc đó. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc mỗi lần làm bạn lại nhận được một kết quả khác nhau.

Tìm hiểu dúng về sinh trắc học dấu vân tay
Tìm hiểu dúng về sinh trắc học dấu vân tay

Còn sinh trắc học dấu vân tay ở hcm lại là một lĩnh vực hoàn toàn khác, bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam từ năm 2010. Ngành này đã được hình thành và phát triển cách đây hơn 200 năm với ước tính có khoảng 7000 công trình nghiên cứu khoa học liên quan. Đồng thời, nó được phát triển dựa trên nền tảng 5 giải Nobel khoa học về ứng dụng của dấu vân tay trong Y học, gen học, di truyền học, phôi học:

Công nghệ sinh trắc học vân tay trong đời sống
Công nghệ sinh trắc học vân tay trong đời sống
  • Năm 1684: Tiến sĩ Nehemiah Grew (1641-1712) giới thiệu Finger Prints, Palms and Soles đến Hội Hoàng gia.
  • Năm 1685:Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống.
  • Năm 1686: Tiến sĩ Marcello Malpighi (1628-1694) đưa ra luận thuyết về các loại vân tay: xoắn, móc, vòm trong dấu vân tay.
  • Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên đưa ra thuyết cơ bản về phân tích vân tay và giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất.
  • Năm 1823: Tiến sĩ Jan Purkinje phân loại những chủng trên các vân tay thành 9 loại.
  • Năm 1823: Johannes Evangelista Purkinji tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay bắt đầu hình thành ở khoảng tuần thứ 13 của thai nhi trong bụng mẹ.
  • Năm 1832: Tiến sĩ Charles Bell (1774-1842) là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp khoa học nghiên cứu giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng. Ông đã xuất bản cuốn “The Hand: Its Mechanism and Vital Endowments as Evincing Design“.
  • Năm 1893: Francis Galton (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau. Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay và chia vân tay thành 3 loại lớn: Vân sóng (không có tam giác điểm), vân móc (có 1 tam giác điểm), vân xoáy (có 2 tam giác điểm) (1892) Francis Galton (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau.
  • Năm 1897: Harris Hawthorne Wilder là người Mỹ đầu tiên học về Dermatoglyphics. Ông đã phát minh ra chỉ số Main Line, nghiên cứu thenar hypothenar eminence, khu II, III, IV.
  • Năm 1926: Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người.Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.
  • Năm 1944: Tiến sĩ tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách “Bàn tay của trẻ em”. Ông đã khám phá một số điểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay.
  • Năm 1957: Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down.
  • Năm 1968: Sarah Holt nghiên cứu mô hình các vân tay của cả hai bàn tay và lòng bàn tay ở các dân tộc khác nhau cả về đặc tính bẩm sinh và sự tác động của môi trường.
  • Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bảncuốn “Thiên tài qua vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sựhình thành của vân tay.
  • Năm 1970: Liên Xô sử dụng Sinh trắc vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho thế vận hội Olympic.
  • Năm 1976: Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh, ung thư, bệnh bạch cầu, bệnh tâm thần phân liệt… nghiên cứu được hướng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán của các khuyết tật nhiễm sắc thể.
  • Năm 1980: Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.
  • Năm 1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng Sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay.
  • Năm 2000: Tiến sĩ Stowens – Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.