Sinh trắc học dấu vân tay là ngành khoa học trong Sinh trắc đã được áp dụng phổ biến và lâu đời nhất. Phương pháp này phân tích mật độ dày đặc, độ dài – ngắn, các khúc quanh, hình dạng của vân tay, … để phân tích chỉ số TFRC (mật độ phân bố neutron thần kinh) và các năng lực tiềm ẩn của não bộ.
Sinh trắc vân tay cho bé là một công cụ rất hữu hiệu trong việc khám phá những tiềm năng hoạt động của trí não. Với những chỉ tiêu, con số cụ thể, báo cáo phân tích có thể hỗ trợ chúng ta đánh thức những tiềm năng khiếu bẩm sinh vượt trội của từng cá nhân. Từ đó, phục vụ công tác giáo dục, phân tích và nắm bắt tâm lý, tính cách và năng lực sở trường của mỗi con người, đưa ra những khuyến nghị giúp định hướng nghề nghiệp, sở trường, sở đoản để đề xuất phương án cải thiện.
CƠ SỞ SINH TRẮC HỌC VÂN TAY
Được hình thành công trình nghiên cứu từ cách đây gần 200 năm, sinh trắc học vân tay là ngành khoa dựa trên nền tảng khoa học về Gene, Phôi học, Nhân chủng Học, Giải phẫu học, Sinh lý học thần kinh,…
- – 1685, Cuốn sách đầu tiên về vân tay học do Gouard Bidloo viết và xuất bản.
- – 1686, Marcello Malpoghi Barcelona người đầu tiên dùng kính hiển vi quan sát vân tay và ghi chép vào biên niên sử.
- – 1788, J.C.A Mayer người đầu tiên soạn thảo các nguyên tắc cơ bản khi phân tích vân tay và phát hiện vân tay của mọi người không trùng nhau.
- – Năm 1823, Joannes Evangelista Purkinji Breslau tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay và là người đầu tiên chia vân tay làm 9 loại.
- – Năm 1880, Henry Faulds và W.J Herschel, trong tạp chí công bố tên là “Nature”, đã đề xuất sử dụng vân tay như là phương thức độc đáo để xác định bản chất của con người (lấy dấu vân tay tội phạm tại hiện trường xảy ra vụ án và đưa ra lý luận gen vân tay).
- – Năm 1892, ông Francis Galton đã chỉ ra rằng: vân tay của những cặp song sinh, anh em và di truyền cùng dòng máu thì có sự tương đồng. Chính điều này đã mở ra ngành nhân học. Ông cũng là người đầu tiên chia vân tay thành 3 nhóm: Whorl, Ulnar, Arch.
- – Năm 1902, Harris Hawthorne Wilder đã thiết lập hệ thống cơ bản của môn hình thái học, di truyền học, và nghiên cứu trên chủng loại lòng bàn tay và vân tay.
- – Năm 1926, Harold Cummins đề xuất “Dermatoglyphics” (derma=skin, glyph=carving) như là một thuật ngữ cho chuyên ngành nghiên cứu dấu vân tay tại Hiệp hội hình thái học của Mỹ. Từ đó, Dermatoglyphics chính thức trở thành một ngành nghiên cứu riêng biệt. Ông đưa ra lí luận chỉ số cường độ vân tay PI, giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.
- – Năm 1930, Hiệp hội nghiên cứu hình thái sinh lý học (viết tắt là SSPP: Society for the Study of Physiological Patterns) bắt đầu công trình nghiên cứu 5 chủng loại vân tay và những nét đặc trưng độc đáo của nó.
- – Năm 1958, Noel Jacquin đã nghiên cứu và phát hiện ra mỗi vân tay sẽ tương ứng với một chủng loại tính cách.
- – 1967, Beryl B.Hutchinson phát hiện vân tay có thể chứng minh đặc trưng tính cách bẩm sinh của mỗi con người.
- – 1974, Beverly C.Jaegers, nghiên cứu và đưa đưa kết luận rằng các ký hiệu vân tay hiển thị trên bàn tay có thể đặc trưng tâm lý con người.
- – Năm 1981, giáo sư Roger W.Sperry và đồng sự đã được vinh danh giải thưởng Nobel trong ngành Y sinh học vì những nghiên cứu về chức năng của não trái và não phải cũng như lý thuyết toàn não.
- – Năm 1986, là năm của 2 nhà khoa học người Ý và Mỹ đã đoạt giải Nobel về y học và sinh học. Họ khẳng định rằng, mối tương quan giữa chỉ số phát triển noron thần kinh (NGF) và chỉ số phát triển tế bào hạ biểu bì hình thành nên vân tay (EGF). Hay nói cách khác, vân tay là biểu đồ tham chiếu mật độ tế bào thần kinh trên vùng đại não, khu vực chịu trách nhiệm các hoạt động, hiểu biết, trí tuệ của con người.
- – Năm 1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng Sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay.
- – Năm 1994, giáo sư Lin Jui Pin đã mang khoa học Sinh trắc học dấu vân tay vào Đài Loan. Sau đó, nó đã được ứng dụng vào việc học tập và nghiên cứu và tạo ra tiếng vang rất lớn tại Đài Loan vào lúc bấy giờ. Công trình nghiên cứu của ông được Mỹ chứng nhận và cấp bằng sáng chế.
- – Từ năm 2010, Sinh trắc học dấu vân tay du nhập vào Việt Nam.
Ứng dụng ngành sinh trắc học vân tay
Trong giáo dục:
- – 1985, Tiến sĩ Chen Yi Mou- Đại học Havard nghiên cứu sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết đa thông minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay.
- – Trung tâm IBMBS ( Trung tâm sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về sinh trắc học vân tay. Ngày nay, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan áp dụng sinh trắc vân tay đến các lĩnh vực giáo dục, định hướng giáo dục cho trẻ như xác định phương pháp dạy con phù hợp, …. hy vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả.
Trong quân đội:
- – 1902, Sử dụng đầu tiên có hệ thống dấu vân tay tại Mỹ của Ủy ban New York dịch vụ dân sự để thử nghiệm. Tiến sĩ Henry P.DeForrest tiên phong trong việc sử dụng vân tay.
- – 1903, Hệ thống nhà tù tiểu bang New York bắt đầu sử dụng hệ thống đầu tiên của dấu vân tay ở Mỹ cho tội phạm.
- – 1904, Sử dụng dấu vân tay bắt đầu tại nhà tù liên bang Leavenworth ở Kansas, và sở cảnh sát St Louis. Họ đc hỗ trợ bởi 1 trung sĩ của Scotland Yard người đã từng làm nhiệm vụ tại triễn lãm hội chợ St Louis. Một thời guan sau hội chợ St Louis, hiệp hội quốc tế của Trưởng công an (IACP) đã thành lập kho lưu trữ dấu vân tay quốc gia đầu tiên của nước Mỹ, được gọi là văn phòng quốc gia xác định hình sự.
- – 1905, Quân đội Mỹ bắt đầu sử dụng dấu vân tay. Bộ Tư Pháp Mỹ lập ra văn phòng xác định hình sự ở Washington, DC để cung cấp 1 bộ sưu tập tài liệu tham khảo về dấu vân tay.
Tìm hiểu thêm: Chăm sóc nuôi dạy con một cách thông minh
Trong y tế:
- – 1950, nhà phẫu thuật thần kinh nguời Canada- Giáo sư Wilder Penfield công bố công trình “ Biểu đồ mặt cắt của não bộ” trong mối quan hệ với các bộ phận của cơ thể, mô tả mối liên hệ giữa vân tay và cấu trúc não bộ.
- – 1957, Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chuẩn đoán Hội Chứng Down.
- – 1974, Beverly C.Jaegers nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng các ký hiệu vân tay hiển thị trên bàn tay có thể cho biết đặc trưng tâm lý của con người.
- – 2000, Tiến sĩ Stwens – Giám đốc bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố để có thể chuẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%.
- – 1970, Liên Xô sử dụng sinh trắc vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho thế vận hội Olympic.